KINH NGHIỆM DẠY HỌC SINH YẾU KÉM
Là giáo viên thì ai ai cũng phải biết: “Muốn giáo dục con người thì phải hiểu con người về mọi mặt.” Để giáo dục đạt hiệu quả người giáo viên phải hiểu sâu sắc các em. Từ đó mới có thể đặt ra những tác động sư phạm thích hợp và cụ thể với từng đối tượng học sinh.
1. Cách thức nhận biết học sinh yếu – kém:
Để nắm được tình hình học sinh trong lớp của mình chủ nhiệm, có nhiều cách và nhiều biện pháp khác nhau, điển hình:
+ Thông qua nghiên cứu lí lịch học sinh giáo viên sẽ nắm được hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp của phụ huynh, gia đình đông con hay ít con, phụ huynh có quan tâm giáo dục con cái hay không,địa bàn cư trú của các em…
+ Thông qua nghiên cứu hồ sơ của học sinh như: Học bạ, sổ liên lạc, khảo sát chất lượng học sinh đầu năm. Giáo viên sẽ nắm được mặt mạnh cũng như mặt hạn chế của học sinh. Trong quá trình dạy giáo viên cần phải phát hiện kịp thời các lỗ hỏng trong kiến thức mà học sinh bị vấp phải.
+ Giáo viên luôn quan tâm, trao đổi, lắng nghe ý kiến của học sinh. Dẫn học sinh nói lên những mong muốn trăn trở của mình.Từ đó giáo viên sẽ nắm bắt được tâm tư,nguyện vọng, sở thích, thái độ trong quan hệ với mọi người của học sinh. Và cũng từ đây giáo viên sẽ phát huy sở trường của học sinh, từ đó kích thích các em học tập.
+ Thông qua trao đổi với phụ huynh học sinh để nắm bắt được sự quan tâm giáo dục hay thờ ơ của họ.Từ đó có sự tư vấn và phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh để lựu chọn phương pháp dạy học phù hợp…
2. Phân loại học sinh yếu – kém:
Có 3 nguyên nhân chính dẫn đến yếu – kém trong học tập ở học sinh tiểu học
+ Do hoàn cảnh gia đình.
+ Do mất căn bản.
+ Chưa nhận thức được nhiệm vụ học tập hay nói thông thường là học sinh lười học, không chăm chỉ chuyên cần.
3. Các biện pháp khắc phục - giúp đỡ học sinh yếu kém:
a. Xây dựng động cơ học tập cho học sinh yếu chính là xác định học sinh hiểu học để làm gì? Vì sao phải học?
b. Người ta phân chia động cơ học tập của học sinh ra thành nhiều loại như sau:
+ Động cơ mang tính xã hội: học để sau này góp phần xây dựng đất nước, xây dựng quê hương.
+ Động cơ mang tính cá nhân: học vì lợi ích riêng của mình, muốn hơn người, muốn sau này có vị trí cao trong xã hội…
+ Động cơ bên trong: xuất phát từ chính việc học, nghĩa là học để nắm được kiến thức,vận dụng nó vào thực tế một cách khoa học.
+ Động cơ bên ngoài: Học vì muốn có điểm tốt, muốn thầy cô và cha mẹ vui lòng…
Có động cơ học tập đúng đắn nghĩa là động cơ xuất phát từ chính việc học, học sinh học tập để có kết quả tốt. Do vậy sẽ tạo cho học sinh yêu thích việc học, có hứng thú trong học tập. Động cơ tạo nên động lực học đó chính là thành tố quan trọng trong cấu trúc hoạt động học tập của học sinh.
3.1 Đối với học sinh yếu do hoàn cảnh gia đình
Gia đình là môi trường giáo dục có ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ.Trước tiên là ảnh hưởng của cha mẹ rất sâu sắc. Vì vậy, giáo dục gia đình là một “điểm mạnh”, là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp giáo dục trẻ. Song mỗi gia đình có những điểm riêng của nó nên giáo viên phải biết phối hợp như thế nào để đảm bảo được tính thống nhất, toàn vẹn trong quá trình giáo dục. Đồng thời phát huy ảnh hưởng cùng nhà trường giáo dục học sinh đạt hiểu quả.
Trước những nguyên nhân xuất phát từ gia đình giáo viên cần:
- Tạo cơ hội để trao đổi trực tiếp với phụ huynh học sinh, nắm bắt cụ thể hướng phấn đấu của em vì mục tiêu, kế hoạch chung của lớp, của trường…Thông qua các buổi họp phụ huynh học sinh.
- Hợp tác giữa giáo viên và phụ huynh là điều cần thiết để học sinh học tập và rèn luyện. Qua đó, giáo viên sẽ thông tin kịp thời đến phụ huynh về kết quả học tập, hạnh kiểm, các mặt tham gia hoạt động …của con em mình thông qua sổ liên lạc…Giáo viên và phụ huynh cần phải có sự liên kết hai chiều nhằm có biện pháp tác động phù hợp. Động viên khuyến khích khi các em tiến bộ, nhắc nhở kịp thời khi các em có biểu hiện cần uốn nắn.
- Giáo viên chỉ mời phụ huynh khi cần thiết để bàn bạc biện pháp giáo dục các em. (không nên lạm dụng).
- Giáo viên tạo điều kiện tốt nhất về thời gian để học sinh có thể hoàn thành bài học ngay lại lớp.
3.2. Đối với Học sinh yếu do mất căn bản:
Kiến thức luôn cần có sự xuyên suốt. Do mất căn bản học sinh khó mà có nền tảng vững chắc để tiếp thu kiến thức mới. Để khắc phục tình trạng này, giáo viên cần:
- Hệ thống kiến thức theo chương trình.
- Đưa ra nội dung bài tập phù hợp với kiến thức để học sinh có thể luyện tập kiến thức mới và ôn lại kiến thức đã học.
- Phân hóa đối tượng học sinh .
- Quan sát và theo dõi từng hoạt động của các em,bằng nhiều hình thức tổ chức (thi đua cá nhân,thi đua tổ nhóm,đố vui,giải trí,…). Kết hợp kiểm tra thường xuyên việc học của các em mỗi ngày nhằm rèn thói quen học bài và làm bài, kích thích hoạt động trí tuệ cho các em.
- Động viên , khích lệ, tuyên dương kịp thời với tác dụng:
• Xác nhận sự tiến bộ ở học sinh.
• Kích thích sự say mê, hứng thú học tập của học sinh.
• Thúc đẩy hành động theo chuẩn mực.
• Giúp học sinh tự tin là mình học được, mình có thể giỏi như các bạn…
• Sửa chữa hành vi sai lệch của học sinh.
• Kèm chế sự bộc phát, tập thói quen chu đáo và cẩn thận.
• Ngược lại nếu lạm dụng trách phạt sẽ hạn chế sự độc lập, sáng tạo của học sinh.
Ta thấy rằng, con người luôn luôn có hai nhu cầu đối lập nhau là tự khẳng định mình và đồng nhất mình với người khác. Do vậy, trong giảng dạy giáo viên cần nắm vững đều này để kích thích học sinh hứng thú say mê học tập.
3.3. Học sinh yếu do lười, học không chăm chỉ, không chuyên cần hoặc chưa nhận thức được nhiệm vụ học tập:
Những học sinh rơi vào tình trạng trên là do: không học bài, không làm bài, thường xuyên để quen tập ở nhà, vừa học vừa chơi, không tập trung, lo ra…Để các em có hứng thú học tập, giáo viên phải nắm vững và phối hợp nhịp nhàng các phương pháp dạy học,thay đổi bằng hình thức trò chơi, sử dụng phong phú đồ dung học tập … Giúp các em hiểu bài, tự bản thân mình giải quyết các bài tập cô giao. Ngoài ra, giáo viên động viên các bạn trong tổ nhắc nhở và giúp đỡ lẫn nhau mỗi khi các em vấp phải những lỗi trên. Chúng ta phải hiểu, một học sinh yếu – kém không đòi hỏi các em phải giỏi ngay được. Mà điều, chúng ta mong muốn là sự tiến bộ từng bước ở các em so với thời gian trước. Phương pháp này không dùng để giáo dục học sinh yếu – kém do hoàn cảnh gia đình được.
Ngoài ra ,giáo viên cần phải trao đổi trực tiếp đến từng đối tượng học sinh bằng lời nói , cử chỉ , mệnh lệnh thật thuyết phục đến các em.
Chính những tác động trực tiếp thường tạo ra dấu ấn tức thì về sự chuyển biến tâm lí như thái độ, hành vi, tình cảm…học sinh sẽ dần tiến bộ.
ST